Theo điều 328 Bộ luật Dân sự quy định, đặt cọc là việc bên đặt cọc giao cho bên nhận đặt cọc một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.
Tài sản đặt cọc, theo đó, sẽ được xử lý theo 3 trường hợp sau:
- – Khi hợp đồng được giao kết, thực hiện: Tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền;
- – Khi bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng: Tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc;
- – Khi bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng: Phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Nếu mảnh đất nằm trong quy hoạch mà chưa có quyết định thu hồi đất của cơ quan có thẩm quyền.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 49 Luật Đất Đai 2013:
2. Trường hợp quy hoạch sử dụng đất đã được công bố mà chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng và được thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Trường hợp đã có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì người sử dụng đất trong khu vực phải chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất theo kế hoạch được tiếp tục thực hiện các quyền của người sử dụng đất nhưng không được xây dựng mới nhà ở, công trình, trồng cây lâu năm; nếu người sử dụng đất có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình hiện có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.”
Căn cứ quy định trên, nếu chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm, hai bên tiến hành chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định.
Tuy nhiên khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất bạn phải tìm hiểu các vấn đề pháp lý liên quan đến mảnh đất bao gồm: đất có nằm trong quy hoạch không, đất có tranh chấp không. Nếu bạn cho rằng bên bán đã không trung thực trong quá trình nhận chuyển nhượng, nếu có chứng cứ về việc này thì bạn có thể yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng đặt cọc đã giao kết là vô hiệu do bị bên bán lừa dối theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.